Những thanh âm của đá
Bo Bo Hùng, cán bộ Trung tâm Văn hóa huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, dìu dặt nhịp búa gỗ, những thanh âm từ đá vang lên như hồn thiêng nguồn cội ngàn năm dội về. Tiếng đá kêu như tiếng của linh hồn ẩn trong đá, khắc khoải đến ngây người. Đá vang lên những thanh âm riêng biệt, tha thiết, trữ tình như những làn điệu dân ca của đồng bào Raglai. Ấy là hồn thiêng nguồn cội. Có giọng mẹ, giọng cha. Có giọng sông, giọng núi. Hết thảy hòa thành tiếng vọng thâm u của đại ngàn; tấu lên những khúc hòa ca Raglai nhiều cảm xúc.
Có lẽ, đó là sự dồn nén của ngàn triệu năm trước trong lòng đá, tạo nên một linh hồn vĩnh cửu hóa thân vào đá, để bây giờ người đời nhọc nhằn tái tạo lại thanh âm ấy. Dưới những lớp đất đá của núi rừng Khánh Sơn, chẳng biết từ bao giờ người Raglay xứ này đã biết nghe tiếng đá kêu. Những tiếng đá khi va vào nhau thánh thót như tiếng của tiền nhân, miên man miệt mài, tấu lên khúc nhạc dặt dìu của đại ngàn vĩnh cửu.
Bo Bo Hùng biểu diễn đàn đá. |
Người bây giờ gọi là đàn đá, còn với người Raglay gọi đó là “goong lu”, có nghĩa là cồng đá, đá kêu như những chiếc cồng. Đã bao đời người Raglay làm bạn cùng đá, vui buồn cùng đá. Đá cũng như thay cho lời kể, niềm an ủi, lúc vui, lúc buồn trong cuộc sống của người dân xứ này.
Theo tư liệu tại Phòng Truyền thống huyện Khánh Sơn, năm 1949, những người làm đường phát hiện tại Ndut Liêng Krak, tỉnh Đắk Lắk, một bộ 11 thanh đá xám có dấu hiệu ghè đẽo bởi bàn tay con người, kích thước từ to đến nhỏ. Nhà dân tộc học người Pháp Georges Condominas cho rằng, nó không giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào trên thế giới và đưa về Pháp để nghiên cứu và hiện được trưng bày tại Bảo tàng Museé de l’Homme ở Paris. Các nhà khảo cổ kết luận, đây là bộ đàn đá của tộc người Raglai, có niên đại từ 2.000 -5.000 năm.
Nhưng căn cứ vào loại đàn đá tìm được ở di chỉ khảo cổ Bình Đa, các nhà khoa học cho biết, những thanh đá để làm đàn này có tuổi đời khoảng 3.000 năm. Các nhà nghiên cứu sau khi khai quật và khảo sát tại đỉnh núi Dốc Gạo, thuộc địa phận thôn Tô Hạp, xã Trung Hạp, huyện Khánh Sơn,cho thấy, nơi đây chính là một xưởng chế tác đàn đá khổng lồ của người tiền sử, bởi vì người ta không chỉ phát hiện những thanh đó nguyên vẹn, mà còn những mảnh đá vương vãi trong quá trình con người ghè đẽo vẫn còn xung quanh. Các nhà nghiên cứu cho rằng, đây chính là cái nôi phát tích ra các bộ đàn đá, nơi có nhiều dấu tích chứng tỏ người xưa đã chế tác đàn đá tại đây và dân tộc Raglai là những người chủ thực sự của những bộ đàn đá.
Đàn đá Raglay được chế tác từ loại đá đen, chỉ có tại huyện Khánh Sơn. |
Năm 1979, Việt Nam chính thức công bố việc phát hiện bộ đàn đá Khánh Sơn, loại nhạc cụ cổ có giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc của dân tộc khiến thế giới kinh ngạc. Sau đó, đàn đá đã được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ độc đáo trong không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên kiệt tác truyền khẩu, phi vật thể của nhân loại.
Bo Bo Hùng, người Raglay và là nghệ nhân chơi đàn đá nhiều năm thủ thỉ rằng, đàn đá như biểu hiện cho tiếng lòng của người Raglay, mỗi âm thanh khi được đánh lên, người nghe như cảm nhận được người Raglay đang gửi lòng mình vào đá, tiếng đàn đá như âm thanh vang vọng từ quá khứ. Trong tâm thức người dân Raglay, âm thanh của đàn đá không chỉ là tiếng động để vật xua đuổi tà ma, mà còn là âm thanh thúc giục mọi người chăm làm nương rẫy, cầu bình an cho bản làng và cầu mưa thuận gió hòa. Nhưng có một điều khó hiểu, đó là dẫu người xưa không biết nhạc lí, không có phương tiện đo tần số âm thanh, nhưng vẫn chính xác với từng thanh âm của những phiến đá. Bo Bo Hùng giảng giải, thang âm của đàn đá Khánh Sơn phỏng theo cao độ của tầm cỡ dân ca, có giọng nam, giọng nữ; có giọng trống, giọng mái hòa điệu cùng nhau. Thanh đá dài, to, dày có âm vực trầm, thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì có âm vực cao và thanh, như những tiếng vọng thâm u của đại ngàn. Có lẽ thế, nên nghệ nhân Bo Bo Hùng mới bảo, mỗi thanh đá có một linh hồn riêng.
Hồn trong tiếng đá
Đàn đá, những tưởng có một số phận êm đềm là thế từ khi phát hiện, nhưng chẳng ai ngờ cũng nhiều thăng trầm lắm lắm. Thời chiến tranh, bộ đàn đá được coi là tiêu biểu của đàn đá Việt Nam, là 12 thanh đá kêu có kích thước, hình khối và âm thanh khác nhau được gia đình ông Bo Bo Ren cất giấu trong chiến tranh tại núi Dốc Gạo, xã Trung Hạp. Nhiều năm sau đó, đàn đá vẫn chìm trong quên lãng, và chỉ đến khi Cồng chiêng Tây nguyên được thế giới công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại, thì tiếng đàn đá mới được sống dậy, được quan tâm nhiều hơn và nhiều người thực sự kinh ngạc với đàn đá.
Nhà nghiên cứu Mấu Quốc Tiến sau nhiều năm nghiên cứu, tìm hiểu về đàn đá cho hay, với những bộ đàn đá này, khi đánh lên không theo âm luật nào cả, mà có một thang âm riêng biệt, như cách thể hiện các làn điệu dân ca của đồng bào Raglai. Người Raglai từ xưa lắm, họ đã biết sử dụng âm thanh do các phiến đá kêu tạo ra để xua đuổi thú dữ, bảo vệ nương rẫy, buôn làng bằng cách treo những phiến đá gắn với một chiếc búa trên dòng suối. Sức nước chảy làm cho búa gõ vào đá, phát ra âm thanh. Tiếng đàn đá kết nối cõi âm với cõi dương, giữa con người với trời đất, thần linh, giữa hiện tại với quá khứ… Trong các lễ hội của người Raglai như lễ bỏ mả, lễ ăn mừng lúa mới hay những dịp hội vui của buôn làng, bao giờ đàn đá cũng được đưa ra diễn tấu đầu tiên.
Bo Bo Hùng khẳng định, đàn đá chính là “linh hồn” của người Raglai. Người Raglay xưa hay treo đá lên bên suối, khi dòng nước chảy qua kéo theo những sợi dây buộc một viên đá va vào phiến đá mà tạo nên tiếng kêu. Những đêm thanh vắng, tiếng đàn đá vang lên cao trong trẻo, thánh thót, nghe như tiếng chim ca giữa trùng điệp đại ngàn. Lại có những tiếng trầm như rừng núi chuyển mưa, như gió núi rung cây, như tiếng đàn trâu, đàn bò mỗi chiều rầm rập đi về.
Nhà nghiên cứu Mấu Quốc Tiến thì bảo, ngày trước người Raglai lấy đá tấu lên âm thanh giống cồng chiêng, và chơi theo kiểu của cồng chiêng. Vì thế, đàn đá Khánh Sơn nguyên thủy chỉ đánh được một số giai điệu ngắn của người Raglai. Các bộ đàn đá chế tác sau này có thể đáp ứng được các yêu cầu của các loại nhạc cụ hiện đại, khi mỗi phiến đá một nốt nhạc. Chính vì thế, đàn đá bây giờ không chỉ có hát dân ca Raglai mà còn có thể gõ lên những bản nhạc hiện đại với thanh âm độc đáo.
Có một điều khiến nhiều người tiếc nuối, đó là đàn đá không chỉ mang trong mình nét đẹp văn hóa, tâm hồn của đồng bào mà còn là niềm tự hào của người Raglai. Nhưng hiện nay, những bộ đàn đá để biểu diễn còn rất ít, người biết đánh đàn đá cũng ít, còn người biết chọn đá để làm đàn lại càng ít hơn.
Hiện toàn huyện Khánh Sơn có 2 bộ đàn đá nguyên thủy dùng để biểu diễn. Một bộ đặt tại Phòng Truyền thống huyện Khánh Sơn, còn một bộ do xã Sơn Hiệp quản lí. Trước nguy cơ mai một tiếng đàn đá, từ năm 2020, UBND huyện Khánh Sơn đã tiến hành khảo sát, phục dựng 3 hệ thống đàn đá nước giữ nương rẫy nguyên bản của người Raglai để bố trí tại các dòng chảy tự nhiên ở thôn Dốc Gạo (thị trấn Tô Hạp), xã Ba Cụm Nam và xã Thành Sơn. Đối với đàn đá dùng biểu diễn, chính quyền địa phương cũng tiến hành chế tác 10 bộ để bổ sung cho Phòng Truyền thống huyện và 8 xã, thị trấn, mỗi địa phương 1 bộ. Cùng với việc phục dựng các bộ đàn đá, huyện Khánh Sơn cũng đã tổ chức tập huấn về phương pháp bảo tồn và kĩ năng biểu diễn đàn đá cho 16 nhạc công người Raglai tại địa phương, tổ chức quảng bá giá trị về loại nhạc cụ cổ truyền người Raglai gắn với phát triển du lịch…
Chiều bên triền núi dốc, Bo Bo Hùng vẫn chơi đàn đá. Trong mênh mang âm thanh của đá, có tươi vui lẫn u buồn của đời người Raglay, có suối khe lẫn ghềnh thác, có cánh chim rừng bay hay tiếng đàn trâu về bản. Đàn đá Raglay vẫn còn đó, và vẫn tiếp tục tấu lên những khúc nhạc mang chở hồn thiêng của đá, của tấm lòng người Raglay.